Thời gian mở cửa: Thứ ba - Chủ nhật

Sáng: 08:00 - 11h30 Chiều: 13:00 - 17:00

Điện thoại: 0234.3845217 - 3822152

Địa chỉ: 07 Lê Lợi, Q.Thuận Hóa, TP.Huế

Sáng tạo của Hồ Chí Minh trong việc thành lập Đảng cộng sản Việt Nam và mặt trận dân tộc thống nhất
Đọc bài viết:
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh – người anh hùng giải phóng dân tộc chỉ có một ham muốn tột bậc là “làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành” . Tiếp thu ánh sáng của Chủ nghĩa Mác-Lênin, Người đã chỉ ra rằng muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản, cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản trong phạm vi toàn thế giới, chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới thoát khỏi ách nô lệ.

Dưới sự dẫn dắt sáng suốt và tài tình của Hồ Chí Minh, cách mạng Việt Nam đã vượt qua những sóng gió, cập bến bờ vinh quang.

Cuộc đời đấu tranh cách mạng và những tư tưởng của Người để lại là tài sản tinh thần vô giá cho dân tộc Việt Nam và nhân loại tiến bộ, gắn liền với quá trình phát triển của cách mạng nước ta và đóng góp vào kho tàng lý luận của cách mạng thế gới.

Gần 100 năm đã trôi qua kể từ khi Hồ Chí Minh gặp ánh sáng cách mạng và khoa học của Chủ nghĩa Mác Lênin (1920), loài người đã bước sang thiên niên kỷ mới, nhưng cùng với chủ nghĩa Mác – Lênin, di sản tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân Việt Nam và loài người tiến bộ trên toàn thế giới. Bởi vì “Hồ Chí Minh là một nhà hiền triết hiện đại đã mang lại một viễn cảnh và hy vọng mới cho những người đang đấu tranh không khoan nhượng để loại bỏ bất công, bất bình đẳng khỏi trái đất này” (Tiến sĩ M. Amet)

Hồ Chí Minh không có tác phẩm riêng bàn về phương pháp, nhưng trong thực tế lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Người đã vận dụng sáng tạo và nhuần nhuyễn các nguyên lý của phép biện chứng duy vật macxit kết hợp với các yếu tố của triết học phương Đông, tạo nên hệ thống phương pháp riêng của mình không lẫn với bất kỳ ai. Đó chính là phép biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin nhưng đã được vận dụng và chuyển hóa vào thực tiễn xã hội Việt Nam để sử lý thành công những vấn đề thực tiễn cách mạng Việt Nam đặt ra.

Trong khuôn khổ bài viết, xin được trình bày những sáng tạo của Hồ Chí Minh trong việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và vấn đề đoàn kết dân tộc.

1. Sáng tạo của Hồ Chí Minh trong việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

Từ một người yêu nước chân chính, sau bao nhiêu năm bôn ba hoạt động trong  phong trào công nhân ở các nước “chính quốc” và tham gia hoạt động trong các tổ chức  cộng sản, đặc biệt là từ khi tiếp thu ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh hiểu sâu sắc rằng muốn làm cách mạng đánh đuổi đế quốc và phong kiến thành công để giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người thì phải đưa cách mạng Việt Nam đi theo con đường của cách mạng tháng Mười, đi theo chủ nghĩa Mác - Lê nin. “Muốn vậy trước hết phải có Đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản mọi nơi”[1].

Nếu như Mác cho rằng Đảng Cộng sản là Đảng của giai cấp công nhân thì trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của toàn thể dân tộc Việt Nam, Đảng lãnh đạo toàn dân Việt Nam làm cách mạng dân tộc dân chủ, đòi lại hòa bình và cơm no áo ấm cho toàn thể nhân dân.

Chúng ta biết rằng Mác, Ănghen sinh ra và sống ở các nước tư bản chủ nghĩa     (C. Mác ở Đức, Ph. Ăngghen ở nước Phổ), thời kỳ này chủ nghĩa tư bản đang ở giai đoạn tự do cạnh tranh. Tại các nước này, mâu thuẫn cơ bản của xã hội là mâu thuẫn giữa hai giai cấp tư sản và vô sản, bởi vậy sự nghiệp giải phóng của các ông trước hết tập trung vào giải phóng giai cấp vô sản – giai cấp công nhân. Hai ông cho rằng “Khi mà sự đối kháng giữa các giai cấp trong nội bộ dân tộc không còn nữa thì sự thù địch giữa các dân tộc cũng mất theo”[2]. Lênin nhận xét quan điểm của C. Mác và Ph. Ăgghen rằng “Đối với Mác ... so với “vấn đề công nhân”, thì vấn đề dân tộc chỉ có ý nghĩa thứ yếu thôi”, Lênin cũng giải thích thêm rằng điều đó không có nghĩa là Mác coi thường vấn đề dân tộc.

Cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, một trong những đặc điểm cơ bản của chủ nghĩa đế quốc là đi xâm chiếm thuộc địa để tìm kiếm thị trường và nhân công rẻ mạt. Trong bài phát biểu tại Đại hội V Quốc tế Cộng sản ngày 1 - 7 - 1924, Hồ Chí Minh chỉ rõ: Toàn bộ lãnh thổ của các nước thuộc địa rộng gấp 5 lần  lãnh thổ của các chính quốc, còn số dân của các chính quốc chưa bằng 3/5 số dân của các nước thuộc địa.

Quốc tế I và Quốc tế II do Mác và Ăngghen sáng lập, là tổ chức của giai cấp công nhân, đại biểu cho lợi ích của giai cấp công nhân. Vì vậy, trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Mác và Ăngghen kêu gọi: “Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại”. Xuất phát từ cơ sở xã hội thời đại mình,  hai ông cho rằng sự thù địch giữa các dân tộc sẽ mất theo khi mà đối kháng gai cấp không còn nữa.

Để phù hợp với điều kiện mới, khi mà “số dân của các thuộc địa Anh đông gấp hơn 8 lần rưỡi số dân nước Anh và đất đai của các thuộc địa Anh rộng gấp gần 252 lần đất đai của nước Anh”[3]. Là người bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác, Lênin rất coi trọng giải phóng thuộc địa. Quốc tế Cộng sản III do Lênin sáng lập là đại diện cho lợi ích của giai cấp công nhân, cả nhân dân các dân tộc thuộc địa bị áp bức. Lênin hiệu triệu: “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị ấp bức đoàn kết lại”. Như vậy, trong tư tưởng Lênin đã chú ý tới việc giải phóng các nước thuộc địa, nhưng ông vẫn cho rằng: trong công cuộc giải phóng, trước hết phải giải phóng giai cấp công nhân.

Hồ Chí Minh sinh ra ở Việt Nam thuộc phương Đông – đất nước thuộc địa nửa phong kiến. Hiểu rõ hoàn cảnh lịch sử và điều kiện của xã hội Việt Nam, với vốn kiến thức sâu sắc về triết học phương Đông, tiếp thu ánh sáng khoa học của cách mạng Vô sản tháng Mười và những tư tưởng khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh đã vận dụng phép biện chứng duy vật vào phân tích xã hội Việt Nam, Người hiểu rõ rằng: lý luận chỉ được coi là đúng đắn khi nó đáp ứng được nhu cầu thực tiễn của mỗi dân tộc, rằng thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý, đây là quan điểm cốt lõi nhất của nhận thức luận Macxit, là nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật. Trung thành và sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, ngay từ những năm 20 của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã nhận ra những hạn chế của Chủ nghĩa Mác: “Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gi? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại”[4]. Trong khi khẳng định chủ nghĩa Mác vẫn đúng cả ở phương Đông và phương Tây, Người vẫn nhấn mạnh: Dù sao thì cũng không thể cấm bổ sung “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác bằng cách thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình không thể có được”[5], và cần phải “xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân tộc học phương Đông”[6].

Suốt 2/3 thời gian đầu thế kỷ XX, vấn đề lớn nhất, bao trùm tất cả các dân tộc phương Đông, trong đó có Việt Nam là đánh đuổi ngoại xâm, giành lại độc lập cho dân tộc. Nắm vững quan điểm thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý, xuất phát từ phương Đông, từ Việt Nam,  Hồ Chí Minh nhận rõ rằng sự nghiệp giải phóng trước hết là giải phóng dân tộc. Người chỉ rõ: “quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử tồn vong của quốc gia, dân tộc, nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia, dân tộc chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”[7].

Đầu thế kỷ XX, giai cấp công nhân Việt Nam còn nhỏ bé về số lượng, phong trào công nhân cũng ra đời sau phong trào yêu nước. Từ khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam vào năm 1858, dù triều đình phong kiến nhà Nguyễn nhu nhược, từ nhượng bộ đến đầu hàng Pháp, nhưng phong trào yêu nước chống pháp của các tầng lớp nhân dân do các tướng lính của triều đình, các sĩ phu yêu nước lãnh đạo rồi đến các phong trào văn thân liên tiếp diễn ra thể hiện rõ những mâu thuẫn đối kháng giữa dân tộc Việt Nam với thực dân và triều đình phong kiến tay sai. Như vậy ở Việt Nam, phong trào yêu nước xuất hiện trước phong trào công nhân và phát triển liên tục đã thực sự là động lực lớn của đất nước. Xuất phát từ thực tiễn đặc thù đó của hoàn cảnh xã hội Việt Nam, để chuẩn bị cho việc thành lập Đảng cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh đã tổ chức và truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào yêu nước, nhằm chuyển dần phong trào này từ lập trường yêu nước sang lập trường Cộng sản, và truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào công nhân, chuyển dần phong trào công nhân từ tự phát sang tự giác. Tiếp thu ánh sáng của chủ nghĩa Mác Lê–nin, phong trào yêu nước và phong trào công nhân Việt Nam có sự chuyển biến về chất đòi hỏi phải có sự lãnh đạo thống nhất của một tổ chức Cộng sản. Tháng 2 năm 1930, do yêu cầu bức thiết của phong trào cách mạng trong nước, với sự nhạy bén chính trị và bằng uy tín của bản thân, Hồ chí Minh đã triệu tập hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Đây chính là sự sáng tạo, phát triển lý luận Mác Lênin vào hoàn cảnh thực tiễn của Việt Nam mà Hồ chí Minh là người đã thực hiện và thành công ở nước Việt Nam thuộc địa nửa phong kiến. In đậm màu sắc Việt Nam - Hồ Chí Minh bằng cái riêng đã làm phong phú thêm cái chung.

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập trước hết là để giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Vì vậy Người đã tập trung công sức, trí tuệ cho việc xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng của dân tộc Việt Nam, Đảng là đạo đức, là văn minh.

Đảng Cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm cốt, làm nền tảng tư tưởng, tuy nhiên Người cũng nhắc nhở: Khi vận dụng chủ nghĩa ấy phải trung thành và sáng tạo.

Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân đồng thời cũng là Đảng của cả dân tộc. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc đã được Hồ Chí Minh nêu trong Sách lược vắn tắt của Đảng do Người soạn thảo và được Hội nghị thành lập Đảng thông qua tháng 2 năm 1930: “Đảng ta đội tiên phong của vô sản giai cấp, phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng”[8], Đảng phải tự mình trở thành dân tộc, phải là Đảng của dân tộc Việt Nam.

Đảng Cộng sản Việt Nam mang trong mình tính thống nhất giữa yếu tố giai cấp và yếu tố dân tộc. Đảng tìm thấy nguồn sức mạnh không chỉ ở giai cấp công nhân mà còn ở các tầng lớp nhân dân lao động. ở cả dân tộc, vì vậy toàn dân tộc đã thừa nhận Đảng ta là người lãnh đạo, người đại biểu chân chính cho quyền lợi cơ bản, thiết thân của mình.

2. Sáng tạo của Hồ Chí Minh trong vấn đề đoàn kết dân tộc

Đi theo chủ nghĩa Mác – Lênin, tìm thấy con đường giải phóng dân tộc là con đường cách mạng vô sản, nhưng Hồ Chí Minh biết rút ra từ học thuyết cách mạng và khoa học rộng lớn này những vấn đề cần thiết cho cách mạng Việt Nam, đề ra đường lối đúng đắn cho cách mạng Việt Nam: từ giải phóng dân tộc đến giải phóng giai cấp và giải phóng con người, tức là từ độc lập dân tộc tiến lên Chủ nghĩa xã hội. Muốn làm cách mạng thành công vấn đề hết sức quan trọng và là một trong những yếu tố quyết định thắng lợi của cách mạng là đoàn kết dân tộc.

Nắm vững phép biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã tìm ra phương pháp đại đoàn kết là lấy cái chung, cái tương đồng để khắc phục cái riêng, cái dị biệt, lấy nhân nhượng, thỏa hiệp để giải quyết bất đồng. Người hiểu rằng trong mâu thuẫn nội bộ nhân dân, bên cạnh mặt mâu thuẫn còn có mặt thống nhất. Từ đó Người đề ra chiến lược đại đoàn kết dân tộc.

Trải qua hàng nghìn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước, triết lý nhân sinh và hành động của con người Việt Nam đã được đúc kết thành chân lý “Nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau cùng”. Nửa cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, đứng trước một cuộc đọ sức quyết liệt, dân tộc Việt Nam đã biết khơi nguồn từ sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa dân tộc truyền thống. Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã nâng  truyền thống đoàn kết dân tộc lên một tầm cao mới: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Người đã mở rộng biên độ đoàn kết quần chúng đến tất cả những ai cùng gốc tích Việt Nam, người chung một nước, con Rồng cháu Tiên. Người nói: “Trong bầu trời không gì quí bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đòan kết của nhân dân”[9], và “phải toàn dân đoàn kết, không chia già trẻ, giàu nghèo để giữ nền độc lập, chống kẻ thù chung”. Đầu năm 1930, trong Sách lược vắn tắt của Đảng do Hồ Chí Minh soạn thảo đã ghi “Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp, phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng. Đảng phải thu phục cho được đại đa số dân cày … phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông .. để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Mặt khác Đảng phải liên lạc với các dân tộc bị áp bức khác, và vô sản giai cấp thế giới”[10]

Điểm đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh là sự nhất quán những vấn đề có tính nguyên tắc. Xã hội bao giờ cũng tồn tại những mối quan hệ đan xen, và về mặt lợi ích, vừa thồng nhất, vừa mâu thuẫn. Đặt quyền lợi của Tổ quốc, dân tộc lên trên hết, Hồ Chí Minh đã gương cao ngọn cờ “Không có gì quí hơn độc lập tự do”. Người xây dựng đại đoàn kết dân tộc thành một chiến lược, một bộ phận quan trọng trong đường lối cách mạng của Đảng. Người tìm thấy sức mạnh của giai cấp công nhân và giai cấp nông dân là nền tảng vững chắc của Mặt trận dân tộc thống nhất. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, khối đại đoàn kết đó, tuy rộng rãi nhưng rất bền vững.

Là một người Việt Nam yêu nước, được đào tạo trong khung cảnh hùng vĩ của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, Hồ Chí Minh luôn luôn lấy thực tiễn, lấy sự kiện của đời sống dân tộc và thời đại làm định hướng cho tư duy và hành động, lấy mục tiêu độc lập và phát triển của dân tộc làm căn cứ để xem xét lý luận, để lựa chọn con đường và bước đi cho cách mạng Việt Nam, nhờ đó mà tránh được giáo điều, rập khuôn (do chỉ biết lặp lại cái chung), đồng thời cũng tránh để không rơi vào cơ hội, xét lại (do quá nhấn mạnh cái riêng, cái đặc thù).

Tại Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản thành lập Đảng cộng sản Việt Nam, trong Chính cương sách lược vắn tắt, Người kiên trì tìm lực lượng cách mạng ngoài giai cấp vô sản: “Phải hết sức liên lạc với giai cấp tiểu tư sản, trí thức, trung nông … để lôi kéo họ đi về phía giai cấp vô sản. Còn đối với phú nông, trung tiểu địa chủ và tư sản Việt Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít nữa thì làm cho họ trung lập”[11] (chính cương). Dù cho quan điểm của Người ở thời điểm đó không được Quốc tế Cộng sản ủng hộ, dù bị coi là cộng sản - quốc gia, Hồ Chí Minh với bản lĩnh chính trị và tầm nhìn chiến lược không chỉ trong phạm vi dân tộc mà vươn tới cả tầm nhìn quốc tế của phong trào cộng sản, Người vẫn kiên trì và kiên định đường lối đoàn kết. Năm 1935, Đại hội VII Quốc tế Cộng sản đã có một quyết định lịch sử: Xây dựng Mặt trận thống nhất chống phát xít ở phương Tây và Mặt trận chống đế quốc ở phương Đông cho thấy quan điểm của Hồ Chí Minh, tiếng nói chân chính của Hồ Chí Minh đã chiến thắng.

Thực tế lịch sử dân tộc Việt Nam từ khi có Đảng lãnh đạo đã khẳng định việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và đường lối đoàn kết - đường lối mặt trận dân tộc thống nhất là hết sức đúng đắn và sáng tạo. Đây chính là những cống hiến lớn lao của Hồ Chí Minh đối với Tổ quốc và dân tộc Việt Nam. Đây cũng là những cống hiến xuất sắc của Người vào kho tàng lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin.

 

2. Hồ Chí Minh tào tập. nxb Chính trị Quốc gia, HN, 2000, t4, tr  267 - 268

 

[2] C. Mác và Ph. Awngghen. Toàn Tập, Nxb Chính trị quốc gia, HN, 1995, t4, tr 624

[3] Hồ Chí Minh. Toàn tập, Sđd,  t1, tr 277

 

[4], 6, 7 Hồ Chí Minh. Toàn tập. Sdd, t.1, tr 465

 

 

[7] Đảng Cộng sản Viêt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính tyrij quốc gia, HN. 2000, t 7, tr 113

[8] Hồ chí Minh. Toàn tập, Sdd, t 3, tr 3

[9], 11 Hồ Chí Minh. Toàn  tập, Sđd, t 8, t3, tr 276, tr 3

[11] Văn kiện Đảng 1930 – 1945, T 1, tr 19

Lê Thị Thanh Hương
HTKH "Những khía canh triết học trong tư tưởng Hồ Chí Minh - Giá trị lý luận và thực tiễn"
Các bài khác
    << < 1 2 > >>