Thông thường khi tìm hiểu tư tưởng của một nhân vật, người ta thường dựa vào thơ văn... nói chung là tác phẩm, nếu không thì hoạt động của nhân vật đó để nhận xét, phân tích, đánh giá và rút ra kết luận xác định khuynh hướng tư tưởng của đối tượng mình nghiên cứu.
Nhưng nghiên cứu về cụ Nguyễn Sinh Sắc, ta không thể theo thông lệ trên; vì đến nay thơ văn của Cụ sưu tầm được không có là bao. Trong tình hình tư liệu hiện nay chúng tôi thiết nghĩ không cách nào khác hơn là lần dò theo bước chân của Cụ từ Trung bộ đến khắp cả Nam bộ và một số tỉnh ở Campuchia để phát hiện ra những dấu ấn khắc ghi những hoạt động yêu nước cụ thể của Cụ.
Có xác định được hành động mới đánh giá được tư tưởng.
Vấn đề đặt ra ở đây là làm sao xác định được cụ Phó bảng có hành động yêu nước Cụ thể và khoảng đời Cụ từ khi bị cách chức là một chuỗi dài hoạt động yêu nước.
Chứng minh cụ Phó bảng có hành động yêu nước cụ thể không phải vì Cụ là thân sinh của Hồ Chủ tịch mà là một việc làm khoa học, một công việc của người nghiên cứu lịch sử.
Nếu chúng ta khẳng định rằng nhân cách, hành động và tư tưởng của Cụ đến năm 1911 có ảnh hưởng quyết định đến quá trình hình thành nhân cách, tư tưởng và hướng đi cứu nước của Nguyễn Tất Thành; thì sau năm 1911, nhân cách ấy, tư tưởng ấy sẽ vận động và phát triển như thế nào qua tác động của tình hình xã hội chính trị từ đó đến năm 1929, khi Cụ mất?
Theo chỗ chúng tôi phát hiện, thì Cụ đi đến nhiều nơi ở Nam bộ và một số tỉnh ở Campuchia, nhất là từ năm 1920 trở về sau. Điều này trùng khớp với một số báo cáo của mật thám Pháp.
Cụ đi đến những đâu và làm gì?
Nơi Cụ đến là các nhà Nho, nhà sư yêu nước, các nhà đã từng tham gia phong trào Đông Du, Duy Tân, Văn Thân trước đây hoặc là con cháu họ.
Đến để làm gì? Ta hãy xem một đoạn ở bản công văn mật số 18191S đề Sài Gòn, ngày 6/6/1928 của mật thám Nam Kỳ “... Thái độ của Y (tức cụ Nguyễn Sinh Sắc) về mặt chính trị, cho đến nay không có gì đáng chê trách...”. Như vậy là cụ Sắc chỉ đi chơi, viếng thăm suông thôi sao? Trước đó ở một số báo cáo của mật thám có ghi như:
Trong báo cáo ngày 10/11/1923, mật thám Phan Thiết ghi: “Nguyễn Sinh Sắc trò chuyện với một thanh niên tên Lê Ngọc Diện bằng ngôn ngữ ước lệ. Nguyễn Sinh Sắc thường mang theo một cái túi rất to chứa nhiều giấy tờ có khi viết suốt đêm và không tỏ vẻ gì sợ hãi”.
Ở công văn mật số 879, đề Huế ngày 17/11/1923 ghi: “Công sứ Phan Thiết cho biết bức thư bằng chữ Hán có lối hành văn mờ ảo, nhưng rõ ràng là có tính chất khuấy động nằm trong đống giấy tờ của Nguyễn Sinh Huy và do Trần Đức Phiên ký tên...”.
Trong công văn mật số 867-S, đề Sài Gòn, ngày 1/12/1923 ghi “Nguyễn Sinh Huy đến Sài Gòn chiều tối ngày 29/11/1923. Ông đến nhà người thợ giặt ủi quần áo quê ở Bắc kỳ tên Bùi Văn Tiêu, tức Ba Tiêu ở phố Lagoandiere. Nhà Ba Tiêu không có chỗ ngủ, nên ông Huy đến nghỉ tại nhà em trai của Ba Tiêu tên Tám (cậu Tám) ở cùng phố đêm 29 rạng 30. Ở nơi này đến sáng ngày 30, ông Huy ra đi, không biết đi đâu và bao giờ trở về. Chờ đến 16 giờ ông ta vẫn chưa về.
Theo Ba Tiêu, thì ông ta tính ở lại Sài Gòn ít lâu.
Bùi Văn Tiêu (tức Ba Tiêu) là ai?
Trong quyển Lương Ngọc Quyến (1), ở trang 38, viết: “ví dụ ông Ba Tiêu cũng là người bị an trí mở hiệu giặt ở cầu Khánh Hội, gần bến tàu tứ là bộ giao thông cho các đồng chí trong nước với hải ngoại, do những đám người làm việc dưới tàu biển phụ trách trên đi mới về...”.
Và trong quyển “cuộc cách mạng của Cường Để” (2) trang 59, 60 chép: “...Trú nhà ấy 1 đêm, sáng hôm sau bỉ nhân (tức Cường Để) nhờ họ đưa đi tìm nhà một người thợ giặt là Ba Tiêu. Mục đích của bỉ nhân cốt tìm Phạm Tâm, là người mấy năm trước cùng bỉ nhân từ Hồng Kông đi Tân Gia Ba rồi bỉ nhân sai về Sài Gòn sau không ra được. Nhưng không biết trú sở của Phạm Tâm. Nhân nhớ khi trước Phạm Tâm ở Hồng Kông, có người quen thân tên là Ba Tiêu, sai Ba Tiêu về Sài Gòn làm nghề thợ giặt, nên bây giờ tìm Ba Tiêu thì sẽ biết chỗ Phạm Tâm.”
“Nhà Ba Tiêu tìm được ngay. Nhưng Ba Tiêu không biết bỉ nhân là người thế nào, không muốn lôi thôi, nên nói không quen Phạm Tâm. Bỉ nhân biết ý đưa cho Ba Tiêu xem bút tích Phạm Tâm để trong sổ của bỉ nhân. Biết bỉ nhân với Phạm Tâm là chỗ quen thân, Ba Tiêu mới chịu đưa đi tìm...”.
Đưa hai trích đoạn trên vào đây, chúng tôi muốn chứng minh hành động móc nối liên kết với các cơ sở cũ của phong trào Đông Du trước đây vào hệ thống hoạt động của cụ. Vốn là người có nhãn quan chính trị nhạy bén, thái độ chính trị nghiêm túc, có cái nhìn thời cuộc tỉnh táo. Cụ đã hoạt động theo một cách riêng không hô hào vận động rầm rộ mà âm thầm lặng lẽ, cẩn trọng - nên đã qua được cặp mắt của mật thám thường xuyên theo dõi - và những hoạt động đó đã có tác động về chiều sâu và lâu dài. Những nơi cụ thường lui tới hoạt động ở Nam bộ, ngay sau khi cụ mất 1929 hầu hết đều có phong trào yêu nước phát triển cao và là cơ sở cách mạng vững chắc. Nơi có những đảng viên đầu tiên, nơi có chi bộ đầu tiên là những địa chỉ có mặt cụ: nhà Hương trưởng Hoài (xã Tân Thuận Bình, chợ gạo vùng Vĩnh Kim, cầu Dĩ, Tiền Giang), chùa Tiêu Linh (xã Minh Đức), chùa Hoà Thanh (xã Nhơn Hưng, Tịnh Biên), chùa Giồng Thành (xã Lạng Sơn, Phú Tân, An Giang) và nhất là ở xã Hoà An (Cao Lãnh, Đồng Tháp).
Rõ ràng là cụ Nguyễn Sinh Sắc đã có hoạt động yêu nước cụ thể, cụ hoạt động theo một cách riêng, chính Arnoux, tên trùm mật thám Đông Dương cũng đã nhìn nhận, do J.lacouture thuật lại, thì cụ “là một nhà cách mạng theo kiểu riêng chống Pháp không công khai mà lặng lẽ “ (3)
Một đồng chí cách mạng lão thành, ông Lưu Kim Phong, năm nay 84 tuổi, người Cao Lãnh đã dự lớp huấn luyện do Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí Hội tổ chức năm 1927 ở Quảng Châu đã kể lại rằng: Qua đồng chí Phạm Hữu Lầu (4), trong những năm 1928 - 1929 cụ Nguyễn Sinh Sắc có điều kiện nghiên cứu sách báo cách mạng, nhất là tờ thanh niên, tờ Lao Nông, sách Đường Kách Mệnh, nắm vững đường lối chủ trương hoạt động của Hội. Tuy không ở trong tổ chức, nhưng cụ Nguyễn Sinh Sắc và cụ Lê Chánh Đáng (5) đã đi lại trong vùng Cao Lãnh với lớp võ ông thầy thuốc, âm thầm phát hiện ra những thanh niên nhiệt tình yêu nước rồi điểm chỉ cho Hội.
Tìm hiểu tư tưởng của cụ Nguyễn Sinh Sắc, cho đến nay, có lẽ quyển “ thân thế và sự nghiệp nhà cách mạng Nguyễn Ái Quốc” của tác giả Việt Nam do Bảo Ngọc Văn Đoàn xuất bản vào tháng 4/1947 ở Hà Nội là cuốn sách đầu tiên đề cập đến, tác giả Việt Nam đã nhận định: “ông Cụ sinh ra ông (tức Nguyễn Ái Quốc) một nhà Nho đỗ Phó bảng và đã làm Tri huyện. Nhưng chẳng phải là nhà Nho hủ lậu, cố chấp mà là nhà Nho có tư tưởng, có tâm huyết, đã vì các tư cách tự lập tự cường và vì đã ngấm ngầm tham dự vào cuộc khởi nghĩa Cần Vương của đảng văn Thân mà bị cách chức. Nhà nho ấy đã căn cứ vào tình trạng thực tế trong cuộc hồi ấy mà tự làm nên một cuộc cách mạng trong làng nho”.
“ Thấy vua Hàm Nghi bị bắt, thấy triều đình và triều thần chỉ là cái tôi tớ của giặc thực dân, cụ Bảng nhà ta liền phủ nhận cái thuyết trung quân của nhà Nho và cho rằng trung quân không phải là ái quốc. Ái quốc là yêu nước. Mà nước là gì? Nước là dân.Vậy ái quốc có nghĩa là ái dân. Từ đấy cụ thường đem cái thuyết đó mà giác ngộ bạn bè và các thanh niên đến thụ nghiệp. Cụ hô hào cải cách và duy tân làm một đồng chí với cụ Phan Chu Trinh ở Quảng Nam, chủ trương lấy dân làm hậu thuẫn cho tất cả các phong trào cải cách chính trị hay xã hội”.
Qua đoạn văn trên, tác giả Việt nam đa cho ta một cái nhìn khái quát về tư tưởng, xu hướng chính trị của cụ Nguyễn Sinh Sắc. Đồng thời tác giả cũng cho ta thấy ảnh hưởng tác dụng của tư tưởng, xu hướng chính trị ấy đối với Nguyễn Tất Thành.
“Nền giáo dục ấy đã gây nên một xu hướng, một quan niệm chính trị rõ rệt và nhắc nhũ cho ông Nguyễn Ái Quốc ngay từ khi còn thơ và ngay từ ngày còn học chữ Hán”.
“”Đến khi được ra trường học, làm quen với các tri thức mới của phương Tây. Ông Nguyễn Ái Quốc càng thấy cái thuyết của cha mình có giá trị, càng thấy cái quan niệm chính trị của mình là hợp với trào lưu”.
Nhưng tác giả không cho ta thấy về sau (sau khi Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước) tư tưởng, xu hướng chính trị của cụ Phó bảng đã phát triển như thế nào và có tác dụng ra sao đối với sự nghiệp cứu nước của dân tộc.
Để có cơ sở nghiên cứu nhận định đánh giá bước đầu về toàn bộ tư tưởng và xu hướng chính trị của cụ Phó bảng, ta tạm chia cuộc đời của cụ làm hai thời kỳ lớn, lấy năm 1911 làm mốc.
I. Thời kỳ thứ nhất: Từ lúc Cụ còn nhỏ đến khi Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước.
Thời kỳ này có thể chia làm hai giai đoạn
1. Giai đoạn 1: Từ nhỏ đến khi đỗ Phó Bảng
a. Thời gian ở Kim Liên: (đến năm 16 tuổi) cha mẹ mất sớm phải ở với anh (cùng cha khác mẹ) chịu nhiều vất vả thiệt thòi. Có chí hướng, thông minh, hiếu học, nhưng không được đi học, thường ngày thường dừng trâu trước cổng trường xem bạn trang lứa tuổi đi học và nghe lén thầy giảng bài. Bước đầu cụ đã cảm thấy cái bất công trong xã hội, từ đó trong Cụ đã hình thành cái chí quyết tâm học tập để thoát cảnh khổ.
b. Thời gian ở Hoàng Trù: ( đến năm 38 tuổi).
Cảnh khổ của Nguyễn Sinh Sắc đã làm cụ Hoàng Đường, 1 nhà Nho tiến bộ ở Hoàng Trù xúc động đem về nuôi cho ăn học và gả con gái cho. Nhờ sự giúp đỡ của Cụ Hoàng, của người vợ hiền tần tảo đảm đang và nhờ có chí quyết tâm cao, vượt qua một cảnh khổ, kiên trì học tập thi cử hai lần thi Hương, 3 lần thi Hội, cuối cùng đạt được chí nguyện: năm 1901 đỗ Phó Bảng.
Nét quán xuyến toàn bộ thời gian này của Nguyễn Sinh Sắc là tinh thần khổ học là quyết tâm theo đuổi việc học đến cùng: nghèo khổ đến đâu cũng học (đưa cả gia đình vào Huế vừa lo sinh kế và lo việc học), khó khăn đến đâu cũng vẫn thi (vợi chết, con chết vẫn thi).
Nhưng điều đáng lưu ý ở Nguyễn Sinh Sắc là học để làm gì? Trong lúc Cụ dốc toàn lực ra tập trung ôn tập để dự kỳ thi Hương lần thứ hai là lúc phong trào Cần Vương nổ ra sôi nổi ở quê nhà (Hoàng Xuân Hành, Vương Thúc Mậu) bạn bè trang lứa nhiều người bỏ học, bỏ làm quan (Vương Thúc Quý...), riêng Nguyễn Sinh Sắc vẫn kiên trì theo đuổi học tập. Động cơ nào thôi thúc ông theo đuổi con đường cử nghiệp đến như vậy?.
- Đỗ đạt ra làm quan để thoát cảnh nghèo khổ. Điều này chắc là không phải. Vì sau này khi dạy học, Nguyễn Sinh Sắc thường khuyên học trò: học để hiểu đạo lý làm người chớ không phải học để dự thi. Nếu thi đỗ thì cũng không nên làm quan, vì làm quan là đè nén, là bốc lột dân.
- Hoặc là để đền đáp ơn nghĩa của người đã khuất? (cụ Hoàng Đường và bà Hoàng Thị Loan). Hoặc để có uy tín tiếng tăm tập hợp bạn bè.
- Cụ Nguyễn Sinh Sắc là phải thương yêu đồng loại, thông cảm. Có thể nói tư tưởng của Cụ bao quát cả giai đoạn là quyết chí khổ học, tự nguyện nghiền ngẫm sách vở cổ nhân để đạt được cái đạo lý chuẩn mực của con người. Tư tưởng “làm người” với người cùng cảnh ngộ, ăn ở phải có tình có nghĩa. Trong hai lần đỗ đạt, ông đã từ chối những đặc ân mà xã hội lúc bấy giờ dành cho các tân khoa vì không muốn làm khổ thêm bà con nông dân vốn dĩ đã nghèo khổ vì sự đỗ đạt của mình. Ông dùng tiền ăn khao chia cho bà con làm vốn sinh nhai. Dân làng kể lại rằng: khi gặp dân làng mang cờ quạt, võng lọng, rước lễ vinh quy cho ông, ông bảo rằng: “Tôi đậu chẳng có ích chi cho bà con làng xóm mà bà con phải đón rước”. Đạo lý “làm người” của ông rút ra từ sách vở của cổ nhân, nhưng không câu nệ hoàn toàn vào sách vở mà ông vận dụng cái đạo lý sao cho phù hợp với thực trạng xã hội lúc bấy giờ. Cái đạo lý “làm người” đó bắt rễ từ trong truyền thống đạo lý dân tộc kết hợp với thực tế cuộc sống xã hội và chính bản thân cuộc đời ông, một cuộc đời từ nghèo khổ mà đi lên. Đúng như tác giả Việt Namđã nhận định: “Nhà Nho ấy đã căn cứ vào tình trạng thực tế trong nước hồi ấy mà tự làm nên một cuộc cách mệnh trong làng Nho”.
2. Giai đoạn hai: Từ khi đỗ đạt đến lúc Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước (1901 - 1911).
Ở chúng tôi không lấy năm cụ bị cách chức (1910) làm mốc phân chia vì đối với của Nguyễn Sinh Sắc, cụ làm quan là một điều bất đắc chí, nên sự kiện bị cách chức đối với cụ không lấy gì làm quan trọng so với việc Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước. Nên sự kiện bị cách chức không tác động mấy đối với tư tưởng của cụ.
- Thời gian dạy học (1901 - 1906).
Lấy cớ bệnh và phụng dưỡng mẹ vợ để không ra làm quan, Cụ về quê nhà dạy học suốt 5 năm. Thời gian này cụ có điều kiện đi nhiều và tiếp xúc nhiều và đọc nhiều “tân thư”. Cuộc sống nghèo khổ, cảnh đời bất công nhan nhản hàng ngày đạp vào mắt cụ như thúc giục cụ phải hành động, phải thể hiện cái “đạo lý làm người” của cụ. Những cuộc tiếp xúc, trao đổi thảo luận “tân Thư” của các sĩ phu yêu nước để tìm phương cứu nước đã dẫn đến chỗ phong trào yêu nước phát triển mạnh trong cả nước với nhiều xu hướng khác nhau.. Cụ hết sức tỉnh táo chưa dứt khoát theo xu hướng nào, vì chưa tin rằng những con đường đó dẫn đến thành công.
- Thời gian làm quan đến năm 1911:
Hết thời kỳ cử tang mẹ vợ, không còn lý do thối thác nữa, cụ đành ra làm quan. Thực sự bước vào thế giới quan trường trong một nước nô lệ, cụ mới biết các cảnh thối nát nhục nhã của nó. Quan thì hiếp đáp bóc lột dân, nhưng lại khúm núm với thực dân, xun xoe với cấp trên, Cụ đã nói: “Quan trường thị nô lệ, trung chi nô lệ, hựu nô lệ”. Người dân nghèo khổ không ai bênh vực chở che. Mọi con đường cứu nước cứu dân mà các bạn chủ trương hầu như đi vào chỗ bế tắc. Cụ đâm ra hoài nghi thế hệ của cụ. Năm 1906, mừng một người bạn đỗ cử nhân cụ viết:
“Ngộ bởi do Hoè vi cực diện tiến thân, hiện tại chỉ khán đà mất giáp”.
“Tiên công dĩ đại bút hùng văn minh thế tái sanh, tằng phủ chi canh tân”(6).
(tạm dịch nghĩa: Bọn ta từ chốn nghèo hèn mà làm nên danh vọng, thế nhưng bây giờ đây chỉ ngồi bàn thứ tự thấp cao mà thôi.
Các bậc đời trước lấy bút mạch văn hùng thức tỉnh đời, ví bằng có sống lại thì cũng khó làm nổi việc canh tân).
Và đặt niềm tin vào lớp trẻ, lớp trẻ sẽ thay thế hệ cụ, làm công việc mà thế hệ cụ chưa làm được. Từ đó cụ tán thành và hỗ trợ cho Nguyễn Tất Thành ra đi.
Nét chủ yếu bao quát trong thời kỳ này của tư tưởng Nguyễn Sinh Sắc là : “đạo lý làm người” được thể hiện cụ thể qua tư tưởng thương dân, thương người dân mất nước bị áp bức, người dân nghèo cam chịu cảnh nhục nhã bất công. Nên trước khi lên đường đi làm quan, cụ chỉ gởi lại một ít ruộng cho con gái, còn bao nhiêu đem bán lấy tiền chia cho những gia đình có người đi phu ở Cửa Rào. Lúc làm Tri huyện Bình Khê, cụ tìm cách thả những người tham gia phong trào chống thế, vì thiếu thuế mà phải bị tù, trừng trị bọn cường hào để bênh vực dân... nhưng làm sao để cứu dân vì cứu dân là cứu nước, cụ chưa biết phải làm thế nào, song cụ vẫn chưa tin rằng con đường cứu nước bằng cách sang phương Đông có thể thành công, cũng từ đó dẫn đến việc Nguyễn Tất Thành không tham gia cuộc Đông Du. Cụ sớm thấy được sự bất lực của thế hệ cụ và tin tưởng mãnh liệt vào lớp con cháu. Cụ tán thành và tích cực hỗ trợ chuẩn bị cho công việc ra đi của Nguyễn Tất Thành từ việc cho Nguyễn Tất Thành vào học trường Pháp - Việt Đông Ba , trường Quốc Học Huế rồi gởi gắm Thành cho bạn bè đồng chí trên đường Thành vào nam.
Tư tưởng thương dân yêu nước và sự tỉnh táo trong cách nhìn thời cuộc của cụ Nguyễn Sinh Sắc đã ảnh hưởng sâu sắc đến Nguyễn Tất Thành trong thời kỳ này. Như tác giả Việt Nam về sau đã viết cái thuyết: “Nước là dân - yêu nước là yêu dân... chủ trương lấy dân làm hậu thuẫn cho tất cả các cuộc cải cách chính trị hay xã hội”... của cụ Phó bảng Sắc đã thấm vào ông Nguyễn Ái Quốc từ lúc còn thơ và khi đã “làm quan với tri thức mới của phương Tây thì Nguyễn Ái Quốc càng thấy cái thuyết của cha mình có giá trị, càng thấy cái quan niệm chính trị của mình là hợp với trào lưu”, tức là hợp với lý luận Mác - Lê Nin về vai trò quyết định của quần chúng nhân dân trong lịch sử . (7)
II. Thời kỳ thứ hai: Từ lúc Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước đến lúc cụ Nguyễn Sinh Sắc mất (1911 - 1929).
Chia ra hai giai đoạn:
1. Giai đoạn 1: Từ lúc Nguyễn Tất Thành ra đi đến khi bản “yêu sách của nhân dân An nam” xuất hiện (1911 - 1920).
Sau bao năm tháng nuôi dưỡng, dạy dỗ, tán thành hỗ trợ cho Nguyễn Tất Thành đi đến Phương Tây để tìm đường cứu nước; dù Nguyễn Tất Thành là con; nhưng sự kiện này có tác động ngược lại cụ Nguyễn Sinh Sắc.Năm sau cụ cũng tìm đường ra đi, nhưng bất thành. Cụ sống quanh vùng Sài Gòn trông chờ tin con, có lúc làm cai phủ đồn điền. Rồi bỏ việc cụ đi lại nhiều nơi ở Nam Kỳ cả Nam Vang liên hệ với Lương Ngọc Quyên, Dương Bá Trạc, Nguyễn Thượng Khánh (ở LX) Lương Văn Can (ở PHnôm-Pênh) Lê Chánh Đáng (Cao Lãnh)... với nhiều nhà sư yêu nước. Tin con vẫn biền biệt, có lúc Cụ uống rượu say bị cảnh sát bắt, được người bạn Cụ là Diệp Văn Cường lãnh ra.
Đây là thời kỳ, Cụ bộc lộ tâm trạng bế tắc, tư tưởng đậm nét nhất. Nước mất, nhà tan (Con Nguyễn Thị Thanh và Nguyễn Tất Đạt bị tù vì tham gia hoạt động yêu nước bạo động) đồng bào bị đoạ đày, bản thân mình bất lực; mọi con đường cứu nước cứu dân đều không lối ra. Người con mà cụ đặt cả niềm tin vẫn biệt vô âm tín. Cụ mượn rượu giải sầu, có lúc say sưa, có lúc giả cuồng, ăn mặc lôi thôi. Nhưng đây cũng là thời kỳ mà Cụ hiểu rõ dân tình, hiểu được những trăn trở của xã hội đầy rẫy mâu thuẫn bất công, nhất là vùng Nam Kỳ vì Cụ đi khắp nơi chủ yếu là đi bộ với bộ dạng “ông thầy Huế” (8) Cụ lọt qua mọi ngưỡng cửa của mọi nhà từ nhà nông dân chạy gạo nồi mơi, phải lo nồi chiều đến nhà đại điền chủ, hội đồng có cả ngàn giạ lúa trong lẫm; từ nhà quan đến nhà đã từng tham gia phong trào Đông Du, Duy Tân’ từ nhà sư yêu nước đến các “ông đạo” ở khắp nơi ở Nam Kỳ.
Nếu trước đây Cụ tỉnh táo trong cách nhìn thời cuộc, thì giờ đây Cụ lại biết tin tưởng và chờ đợi. Cụ là nhà Nho tiến bộ, Cụ cho rằng bế tắc là bản thân Cụ, thế hệ Cụ bế tắc nhưng thế hệ tiếp theo không bế tắc, lớp trẻ sẽ vươn lên, họ sẽ có con đường của họ, sứ mạng lịch sử của họ. Nên trong bế tắc Cụ vẫn tin tưởng và chờ đợi. Nhưng Cụ chờ đời bằng hành động tích cực, Cụ năng đi lại khắp nơi liên hệ, nối kết các hạt nhân yêu nước để chờ đợi thời cơ.
2. Giai đoạn 2: Từ khi “Bản yêu sách của nhân dân An Nam” xuất hiện lúc Cụ Nguyễn Sinh Sắc qua đời (1920 - 1929).
“Bản yêu sách của nhân dân An Nam” do Nguyễn Ái Quốc ký tên mà Nguyễn Ái Quốc tức là Nguyễn Tất Thành, nếu nói nó là quả bom nổ tung tại Paris làm chấn động cả nước Pháp thì nó là tiếng pháo mừng xuân nổ ngay trong lòng Cụ Nguyễn Sinh Sắc. Nó có ảnh hưởng vô cùng to lớn đến tư tưởng và hoạt động trong những năm cuối đời của Cụ.
Cụ như người chết đi sống lại, niềm tin tưởng, sự chờ đợi được nâng cao. Cụ lao vào hoạt động theo một kiểu riêng: bí mật âm thầm lặng lẽ. Từ các cơ sở cũ bung ra mở rộng địa bàn hoạt động., Cụ xuống Tân An (Long An) liên hệ với ông Bùi Chí Nhuận ở Nhật Tảo, ông Đỗ Tường Ninh ở Phú Ngãi trị từ đó bắt mối qua ông Trưởng Hoài, Võ Văn Ký, Hào Ngươn, ở chợ Gạo, ông Phan Văn Viễn (Tòng Am), Nguyễn Từ Dân ở xóm Dầu, rồi ông Trần Năng Liễu, Trần Văn Diệm ở Vĩnh Kim (Tiền Giang), tạt qua ông Võ Hoành ở Sa Đéc, các nhà Đông Du và các hoà thượng yêu nước ở Cao Lãnh, lên miệt Thất Sơn, biên giới liên hệ với nhà sư Thiện Kế (Châu Đốc), Viên Minh (Tịnh Biên), Đạt Điền, Trần Hữu Thường ở Tân Châu; hoặc về ông Phương Sơn, Trần Nguyên Phụ ở Đốc Vàng. Lúc khác đến chùa Hội Khánh (Thủ dầu Một) liên hệ với Túc Cúc, thẳng ra Bà Rịa với sư Chí Thành (chùa Thiên Thai), trở về sư Khánh Hoà ở Bến Tre, sư Thiện Chiêu, Bích Liên, Liên Tôn, Hoàng Khai ở Sài Gòn - và ít nhất là ba lần sang Campuchia đến các nơi có đông đảo Việt Kiều như ở Chòm Dâu (Prêy-veng), Phú Mỹ (Kandan) và nhiều nơi ở TaKe; tại Phnôm-Pênh Cụ đã quy y thọ phái với nhà sư Hồng Đại Bửu Phước ở chùa Sùng Phước, Châu Hộ, Phnôm-Pênh.
Do đi lại và tiếp xúc nhiều, Cụ thấy Nam Bộ là vùng đất mới, nơi phát xuất ra nhiều “mối đạo”, một số đạo trước đây không phải là tổ chức tôn giáo thuần tuý mà là tổ chức yêu nước trá hình để qua mắt giặc. Đạo phật hiện đang sa đà xuống dốc nhiều mặt. Cụ tham gia với các nhà sư yêu nước đề ra cuộc chấn hưng phật giáo với mục đích uốn nắn đạo phật trở về đúng tôn chỉ của Phật. Qua đó đạo phật được dùng như mọi phương tiện để hô hào truyền bá tư tưởng yêu nước, nhà chùa là nơi để tá túc của các nhà yêu nước. Trong những năm 1923, 1924 trên tờ Đảng Pháp thời Bảo ở Sài Gòn xuất hiện hàng loạt các bài viết về chấn hưng đạo phật, tổ chức Nam Kỳ chấn hưng phật giáo ra đời kêu gọi phật tử thôi rút mình vào kinh kệ mà hãy dang tay làm việc xã hội cho phù hợp với tôn chỉ cứu khổ cứu nạn của Phật, tức là kêu gọi phật tử phải trực tiếp tham gia hoạt động chính trị, dân chủ dân tộc; giải quyết các công việc bức bách trước mắt của dân tộc. Ở cổng chùa Linh Sơn (Sài Gòn) trụ sở của Nam Kỳ chấn hưng Phật học, nơi Cụ Phó Bảng thường lui tới mỗi khi về Sài Gòn xuất hiện hai câu đối của Cụ:
Phật pháp thị nhập thế nhi phi yếm thế
Từ bi hải sát sinh dĩ độ chúng sinh.
(Tạm dịch: Đạo Phật là nhập thế chớ không phải xuất thế
Từ bi có lúc phải sát sinh để cứu độ chúng sinh).
Hồi này Cụ viết rất nhiều, có khi suốt cả đêm mà không tỏ vẽ gì sợ sệt. Đi đâu Cụ cũng mang theo cái túi dết chứa nhiều giấy tờ (Báo cáo của Mật thám Pháp 10/11/1923).
Phong trào tuy không rầm rộ nhưng có ảnh hưởng về chiều sâu, về tư tưởng. Qua tiếp xúc với Nguyễn An Ninh, Phan Chu Trinh từ Pháp về Cụ được biết thêm nhiều điều về Nguyễn Ái Quốc, làm hoạt động của Cụ như có thêm chất men kích thích. Cuối năm 1926, Phan Trọng Bình và Nguyễn Văn Lợi, hai phái viên đầu tiên của Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội về Sài Gòn có tiếp xúc với Cụ. Cụ thấy điều Cụ tin tưởng và chờ đời sắp trở thành hiện thực. Mặc dù đã già yếu nhưng Cụ vẫn hăng say hoạt động, những cơ sở do Cụ âm thầm lặng lẽ tạo dựng trong những năm qua trở thành những môi trường tốt cho hạt giống cách mạng bắt rễ đâm chồi.
Nét quán xuyến suốt 9 năm cuộc đời của Cụ là niềm lạc quan tin tưởng tiền đồ dân tộc, tương lai đất nước Cụ đặt hết niềm tin yêu kỳ vọng vào lớp trẻ trong đó có con Cụ. Điều đó đã giúp Cụ hăng say hoạt động hầu như không biết mệt mỏi. Hình ảnh ông thầy Huế “ông già dù đen” mặc áo bâu đứng nút thắt hoặc áo dài vai mang nải tay cầm dù là hình ảnh quen thuộc khắp làng quê, kẻ chợ nơi Cụ lui tới hoạt động. Đối với đồng bào nghèo Cụ xem mạch làm thuốc không lấy tiền. Những hình ảnh “ông ta mềm nhũn chỉ chuyên chú vào đạo phật và chai rượu, có lúc điên loạn” hoặc là “dư luận cho rằng ông ta là một người ảo tưởng, thần bí”, còn lưu lại trong các báo cáo của mật thám chỉ là động tác giả. Thật sự Cụ rất tỉnh táo, sáng suốt, thực tế và lạc quan. Để có thể tiếp cận sách báo bằng tiếng Việt, Cụ đã tự học chữ Quốc ngữ, xong cụ lại bắt tay vào học chữ Pháp bằng cách học góp (trong tay nải của Cụ lúc nào cũng có quyển từ vựng bằng tiếng Pháp, gặp ai biết chữ Pháp thì Cụ hỏi). Trong tháng 4 và tháng 5 năm 1928, Cụ gởi nhiều thơ cho bà goá phụ hương Văn Can ở Phnôm-Pênh với ngôn từ ước lệ, chỉ người trong nội bộ mới hiểu được. Cụ còn tỏ ra cẩn thận, dặn dò kỹ lưỡng về những quy ước, ký hiệu, ẩn từ, biệt danh khi viết thư để làm lạc hướng theo dõi của mật thám, Nhà sư cử Can ở số 1 đường Poissonnare, Phnôm-Pênh lúc bấy giờ là cơ sở của Việt nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội, có lúc đã ủng hộ cho Hội một vạn đồng.
Sự kiện Cụ gắn bó với nhà sư nhà chùa, quy y vào ngày 22/8/1922 chẳng những không là sự hạn chế về mặt tư tưởng mà lại chứng tỏ tư tưởng Cụ rất phong phú, am hiểu sâu sắc đạo phật; có am hiểu như vậy mới có thể và có khả năng vận dụng mặt tích cực của tôn giáo này vào cuộc sống hoạt động yêu nước chớ không coi phật học là lý tưởng phải theo đuổi trong cuộc sống. Hầu hết các nhà sư mà Cụ quan hệ đều là những nhà sư yêu nước và sau đó trực tiếp tham gia hoạt động cách mạng và nhiều người trở thành đảng viên Đảng cộng sản.
Cụ về ở hẳn làng Hoà An (Cao Lãnh _ Đồng Tháp) trong những năm cuối đời không phải là ngẫu nhiên mà là một việc làm có suy tính và tổ chức. Trước đó 10 năm, năm 1917 Cụ đã về ở tại đây cả hai năm sống bằng nghề bốc thuốc và có dạy thuốc cho một số học trò. Trong giờ phút lâm chung Cụ có trăng trối: “Trước đây, tôi định ở chùa Giồng Thành (Tân Châu) với sư Đạt Điền vì muốn lánh mặt Điệp Văn Kỳ (9) nhưng thấy đất Cao Lãnh có khí thế mạnh mẽ hơn nữa còn có ông Nhất Đáng (10), ông Cử Hoành và bà con ở đây tốt quá nên tôi về” (11).
“Đất Cao Lãnh có khí thế rất mạnh” đó là điều mà trong công văn mật của sở mật thám Nam Kỳ ngày 15/5/1928 ghi: “ở làng Hoà An có một nhóm chống Pháp trung thành với Nguyễn Ái Quốc và có mối liên lạc với Đảng đỏ ở Quảng Châu, những người tham gia nhóm này có những tên Lê Chánh Đáng, Hương Chủ Sành...”.
Đó chính là nhóm thanh niên yêu nước hoạt động tích cực từ phong trào đấu tranh đòi thả cụ Phan Bội Châu và truy điệu cụ Phan Chu Trinh (8/1926) đã có quan hệ chặt chẽ với Cụ Phó Bảng và cụ Lê Chánh Đáng; cuối năm 1927 nhóm này trở thành tổ Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội đầu tiên. Một số tổ viên được kết nạp vào Đảng An Nam Cộng sản vào cuối năm 1929 và thành lập chi bộ đầu tiên của tỉnh Sa Đéc (nay là Đồng Tháp).
Qua các bước đường đầy thăng trầm của Cụ Phó Bảng ta thấy mỗi bước là một bước ngoặt đánh dấu sự biến chuyển sâu sắc về tư tưởng.
Xuất thân từ một gia đình nông dân phá sản, nghèo khổ ngay từ lúc nhỏ, trên một vùng quê hương có điều kiện thiên nhiên vô cùng khắc nghiệt nhưng lại có bề dày di tích lịch sử, Cụ Nguyễn Sinh Huy sớm mang trong người “bản chất của con người xứ Nghệ” Cụ đã kiên trì vượt khổ quá nửa đời người để vừa lao động vừa học tập quyết chí vươn lên tới tầm cao của kiến thức.
Học không phải để làm quan, để vinh thân phì gia; mà học cốt để đạt được cái: “đạo lý làm người” để ở đời. Đạo lý làm người của Cụ là vận dụng đạo lý của người xưa, của dân tộc kết hợp với thực tế xã hội và chính bản thân của cuộc sống. Cụ đi lên từ giai cấp nông dân nghèo khổ, giai cấp đã cưu mang gíp đỡ Cụ vượt qua khó khăn để đạt được đỉnh cao danh vọng của xã hội lúc bấy giờ. Khi đã thoả nguyện, Cụ không hề quay hướng ngoảnh mặt, không nổ nhẫn tâm ngồi trên lưng lớp người đồng cảnh với mình để hưởng vinh hoa phú quý. Con người như thế hẳn phải có lòng thương người sâu sắc, nhưng không phải thương người chung chung mà thương những người dân nghèo bị áp bức, bất công, thương những người dân mất nước bị ngoại bang kinh miệt chà đạp. Tư tưởng thương dân đó đã mang nội dung hết sức cơ bản, tiến bộ của tư tưởng yêu nước. Đúng như tác giả Việt Nam đã nhận định “Thấy vua Hàm Nghi đã bị bắt, thấy triều đình và triều thần chỉ còn là tôi tớ của giặc thực dân, Cụ Bảng nhà ta liền liền phủ nhận cái thuyết trung quân của các nhà Nho và cho rằng Trung quân không phải là ái quốc. Ái quốc là yêu nước. Mà nước là gì? Nước là dân. Vậy ái quốc phải có nghĩa là ái dân”.
Nhưng nếu nói, ở Cụ tư tưởng thương dân yêu nước mới được bộc lộ ở những khía cạnh hoà mình, gần gũi đồng cảm với nổi khổ của dân, cưu mang giúp đỡ người nghèo... là vô tình đánh giá thấp Cụ. Mà nếu Cụ bế tắc về tư tưởng như nhiều sĩ phu đương thời thì càng đánh giá thấp Cụ hơn nữa.
Cuộc đời Cụ là cả một chuỗi dài phấn đấu liên tục, lúc nào cũng lạc quan tin tưởng vào tiền đồ dân tộc, tương lai Tổ Quốc. Cụ luôn tìm mọi biện pháp để thể hiện lòng thương dân yêu nước của mình. Cụ tâm sự với cụ Lê Chánh Đáng, một bạn thân thiết của Cụ ở Cao Lãnh có người con trai là Lê Văn Sao trong những năm từ năm 1919 đến 1923 cùng hoạt động chung với lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc ở Paris, rằng:
“Gia ký vô quy, vi hữu quốc
Tử vi vô ích, bắt vi sinh”.
(Nghĩa là: Nhà ở không về, vì có nước, Chết mà vô ích, sống còn hơn).
Vốn là người có thái độ chính trị nghiêm túc, có cái nhìn tỉnh táo trước thời cuộc nên Cụ đã vượt qua được những hành động chủ quan, nóng vội. Trong khi chờ tìm ra được con đường cứu nước phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử, Cụ vẫn ngấm ngầm đi lại nối kết những hạt nhân yêu nước, với chủ trương lấy dân làm hậu thuẫn cho mọi phong trào cải cách chính trị hay xã hội. (Như tác giả Việt Nam đã nhận định). Trong đó tập trung bồi dưỡng khích lệ lớp thanh niên vì Cụ đã ý thức được vai trò lịch sử hạn chế của tầng lớp Cụ và thay được sứ mạng đối với vai dân tộc của lớp thanh niên. Cụ đã nói với họ: “Mấy cậu là hy vọng, là tương lai của Tổ Quốc. Đất nước bị đô hộ, chúng ta phải đứng lên đạp phá xiềng gông nô lệ, không nai lưng lòn cúi, không run sợ trước cường quyền”. (Trích hồi ký của đồng chí Lưu Kim Phong). Cụ là hình ảnh của người làm vườn cuốc từng nhát cuốc dọn cỏ làm đất cho hạt giống mới bắt rễ đâm chồi.
Kịp đến khi có hạt giống mới do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, con Cụ mang về; mặc dù đã ngoài 60, nhưng Cụ vẫn lạc quan tin tưởng, tích cực hoạt động theo kiểu riêng của Cụ: Âm thầm lặng lẽ để hỗ trợ cho lớp trẻ, người đang tổ chức và chiến đấu cho sự nghiệp giải phóng dân tộc theo một hướng đi mới, một hướng đi hợp với xu thế của thời đại. Vì thế mà tên trùm mật thám Achoux đã nói: “Cụ là một nhà cách mạng theo kiểu riêng, chống Pháp không công khai mà lặng lẽ” (theo sống thanh, trên tạp chí lịch sử Đảng số 3/1989).
Chính Cụ là gạch nối, nối liền từ Phan Bội Châu đến Nguyễn Ái Quốc về mặt tư tưởng.
Ban tuyên giáo Tỉnh ủy Đồng Tháp
Chú thích:
(1) Của Đào Trinh Nhất -Sg-Tân Việt 1957
(2) dịch từ cuốn “Phỏng vấn ký” của ký giả Tùng Lâm (người Nhật) do Tráng Liệt, con Cường Để xuất bản.
(3) Dẫn lại theo Đavi Halbarstam “Hồ” -Nhà xuất bản R Houce New Yock 1971. Tài liệu của Viện sử học (tạp chí lịch sử Đảng số 3/1989).
(4) Đ/c Phạm Hữu Lầu lúc đó là tổ trưởng VNTNCMĐCH Hòa An, Cao Lãnh.
(5) Lê Chánh Đáng (1863-1947).
(6) Theo tài liệu của Khu di tích Kim Liên, hai câu đối trên Cụ Sắc tặng cho Nguyễn Tài Tốn ở xã Đại Định, nay là Thanh Lan, Thanh Chương, Nghệ Tĩnh.
(7) Theo Song Thành - Tạp chí Lịch sử Đảng số 3/1989.
(8) Người Nam bộ thường gọi thầy thuốc, thầy đồ người Trung hay Bắc đều gọi là Thầy Huế.
(9) Diệp Văn Kỳ, con Diệp Văn Cườn, lúc còn ở Huế là học trò của cụ Phó Bảng, bạn với Nguyễn Tất Thành, sau đi Pháp học và trở về làm việc cho Pháp.
(10) Tức ông Lê Chánh Đáng, có người con là Lê Văn Sao trong những năm từ 1919 - 1923 cùng hoạt động với Nguyễn Tất Thành ở Paris.
(11) Theo tài liệu lưu trữ tại khu di tích Nguyễn Sinh Sắc.
Nguồn: Hội thảo khoa học “cụ Nguyễn Sinh Sắc” diễn ra ngày 11,12/1/1990 tại Đồng Tháp.