Sự nghiệp cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh bắt đầu từ thời niên thiếu của Người. Tuổi trẻ của Người thật phong phú và sinh động. Trần Dân Tiên trong tác phẩm “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch” đã nhận định: “Khi Chủ tịch Hồ Chí Minh còn là người thiếu niên 15 tuổi, người thiếu niên ấy đã sớm hiểu biết và rất đau xót trước cảnh thống khổ của đồng bào. Lúc bấy giờ, anh đã có chí đánh đuổi thực dân Pháp, giải phóng đồng bào”.
Vậy, hoàn cảnh nào đã tạo ra con người vĩ đại ấy, những điều kiện nào đã giúp cho Người sớm có lòng yêu nước thương dân?. Một số nhân tố cụ thể:
1. Ảnh hưởng của nhân tố gia đình, nhân tố quan trọng đầu tiên trong cuộc đời Người, trong đó gần gũi nhất, mang tính chất định hướng là ảnh hưởng thân sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh - cụ Nguyễn Sinh Sắc:
Nguyễn Tất Thành xuất thân trong một gia đình nhà nho nghèo. Có bố là một sĩ phu phong kiến yêu nước, thương dân, bất bình với chế độ đương thời. Chị gái và anh trai cũng đều là những con người có tinh thần cách mạng. Nhưng phải nói ảnh hưởng lớn nhất, gần gũi nhất và thường xuyên nhất đối với quá trình hình thành tư tưởng yêu nước của Người chính là cụ thân sinh Nguyễn Sinh Sắc.
Cụ Nguyễn Sinh Sắc ngay từ nhỏ đã thể hiện là một con người có tư chất thông minh, có lòng ham học say mê và lòng tự tin mãnh liệt. Với ý chí quyết tâm vượt khó khăn gian khổ, với nghị lực phi thường, Cụ đã đỗ đạt vinh quang, được vua tặng biển “Ân tứ ninh gia”, có cờ “Phó bảng phát khoa” vào năm 1901. Sau này, khi làm quan, cụ Sắc luôn thể hiện quan điểm “trọng nghĩa khinh tài”, giữ một lối sống thanh đạm, gần gũi, thương yêu người nghèo khổ, ghét xa hoa, không thích giao thiệp với người giàu sang quyền quý. Chính tâm lý tự tin, xem thường nguy hiểm, bất chấp khó khăn để đạt được mục đích cuối cùng, nhất là thái độ yêu thương dân nghèo đã ảnh hưởng đến các con của Cụ, trong đó có Nguyễn Tất Thành.
- Cụ Sắc đã giáo dục các con về lòng yêu quê hương, đất nước, căm thù giặc sâu sắc:
Những khoảng thời gian gần gũi với các con, những điều mà cụ Sắc chú trọng dạy các con là “những điều nhân nghĩa, nỗi vinh nhục, lẽ chánh tà...ở đời”. Gieo vào lòng các con tình yêu quê hương, tổ quốc, lòng biết ơn những thế hệ con người lớp trước, trên đường thiên lý từ Nghệ An vào Huế dự thi Hội, “ông thường cho gia đình dừng lại nghỉ chân ở những nơi cảnh đẹp, di tích lịch sử và giảng cho bé Khiêm, bé Cung về vẻ đẹp của thế sông, thế núi, thế đất, về công lao của tổ tiên đã chiến đấu gian khổ chống ngoại xâm, bảo vệ đất nước”[1]. Những chuyến đi thăm các di tích danh thắng cùng những lời dạy bảo của cha đối với cậu Thành là những bài học lịch sử hết sức sống động và có ấn tượng mạnh mẽ.
Từ thưở nhỏ, Nguyễn Tất Thành thường được cha đưa đi đó đi đây, cụ Sắc gặp gỡ, đàm đạo với các sĩ phu yêu nước. Đi nhiều nơi, sống qua nhiều hoàn cảnh, thời cuộc khác nhau của đất nước, tiếp xúc với các thân sĩ, trí thức, chứng kiến biết bao diễn biến, thành bại của các cuộc vận động cứu nước (Đông Du, Duy Tân, Đông kinh nghĩa thục, chống thuế...) là điều kiện quan trọng để Nguyễn Tất Thành bước đầu tiếp thu tư tưởng yêu nước của cha và những người đi trước, định hướng, nuôi dưỡng trong tâm hồn người thiếu niên đầy nhiệt huyết và hoài bão. Những chuyến đi này không những nâng cao trình độ hiểu biết chữ nghĩa mà còn là điều kiện tốt để Nguyễn Tất Thành hiểu sâu hơn, rộng hơn, tầm nhìn xa hơn, thông cảm hơn nỗi cực khổ của người dân lao động, nỗi nhục mất nước của các sĩ phu. Từ đó, hình thành tư tưởng ý chí đánh đuổi thực dân Pháp, giải phóng đồng bào.
Việc giáo dục, định hướng, nuôi dưỡng lòng yêu nước cho các con là một quá trình cố gắng không ngơi nghỉ của cụ Sắc. Lúc ra làm quan ở Bộ Lễ theo lệnh triều đình, cụ Sắc dạy con: “Làm quan cốt sao giữ được cái tiết sạch giá trong; cái gì có thể giúp đỡ được dân chúng thì làm, chớ làm quan để vơ vét của dân làm giàu”[2]. Khi Nguyễn Tất Thành trước khi ra nước ngoài, đã đến tìm cha. Cụ Nguyễn Sinh Sắc liền nhắc nhở: “Nước mất không lo đi tìm, tìm cha phỏng có ích gì”[3]. Và cả sau này nữa, Cụ căn dặn Nguyễn Ái Quốc qua Lê Mạnh Trinh: “Bác nghe nói Quốc đương ở Quảng Châu. Cháu gặp thì nói bác vẫn khỏe, đừng lo...cứ cố gắng làm việc...trung với nước tức là hiếu với bác”. Rõ ràng, cả một quá trình ngay từ thuở ấu thơ, cậu Cung (Chủ tịch Hồ Chí Minh) đã nhận được sự chỉ bảo đúng đắn, ghi lại sâu sắc những lời dạy dỗ từ người cha thân yêu, làm mầm mống sâu xa cho lòng yêu nước thương dân, giúp cậu nhận ra chân tướng của kẻ thù dân tộc và nuôi dưỡng lòng căm thù giặc ngày càng sâu sắc, quyết tâm tìm ra phương thức đúng đắn đuổi giặc ngoại xâm của người thanh niên Nguyễn Tất Thành – Nguyễn Ái Quốc sau này.
- Cụ Sắc đã tạo điều kiện cho các con, nhất là Nguyễn Sinh Cung (Chủ tịch Hồ Chí Minh) được theo Tân học:
Có thể nói, việc cụ Sắc cho các con vào học trường TH Pháp - Việt Đông Ba (1906) và sau đó là trường Quốc Học Huế (niên khóa 1907-1908), những ngôi trường dạy chữ quốc ngữ và chữ Pháp, là một hành động “cách mạng” trong tư tưởng của Cụ. Bởi Cụ đã có chủ định: “Muốn đánh Tây thì phải hiểu Tây, muốn hiểu Tây thì phải học chữ Tây”[4]. Tư tưởng cầu tiến, xem thường lễ nghi phong kiến, chán ghét chế độ quan trường, căm thù giặc cướp nước của cụ Sắc đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự hình thành tư tưởng yêu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh giai đoạn này.
Trường Quốc Học được thành lập theo dụ ngày 17 tháng 9 năm Thành Thái thứ 8 (23/10/1896) với môn học chính là Pháp văn. “Thiên đường trường học” này chính là một trong những công cụ đắc lực thực hiện chính sách nô dịch của Thực dân Pháp, hoàn toàn gắn liền chính sách giáo dục chung của Pháp ở Việt Nam và phục vụ mục đích thực dân của chúng[5]. Trong ngôi trường này, mọi vấn đề lớn nhỏ đều do phủ toàn quyền Pháp quyết định. Với hệ thống giáo viên phần lớn là người Pháp, thô bạo, miệt thị học sinh, có ý đồ nô dịch rõ ràng, chúng muốn biến học sinh thành những kẻ mất gốc, vong bản, trở thành lực lượng tay sai ngoan ngoãn, tận tuỵ và đắc lực cho chính quyền thực dân phong kiến. Nguyễn Ái Quốc sau này đã lên án, vạch rõ âm mưu của thực dân Pháp trong tác phẩm của mình: “Trường học lập ra không phải để giáo dục cho thanh niên Việt Nam một nền học vấn tốt đẹp và chân thực, mở mang trí tuệ và và phát triển tư tưởng cho họ, mà trái lại càng làm cho họ đần độn thêm. Ngoài mục đích giáo dục để đào tạo tùy phái, thông ngôn và và viên chức đủ số cần thiết phục vụ cho bọn xâm lược - người ta đã gieo rắc một nền giáo dục đồi bại, xảo trá và nguy hiểm hơn cả sự dốt nát nữa, vì một nền giáo dục như vậy chỉ làm hỏng mất tính nết của người đi học”[6].
Tuy nhiên, một thực tế diễn ra trái với mong đợi của chính quyền thực dân phong kiến, rằng càng bị người Pháp lăng mạ, thì ý thức dân tộc của đội ngũ học sinh Quốc Học ngày càng trỗi dậy mạnh mẽ, không chấp nhận nền giáo dục sặc mùi thực dân, họ đã đứng về phía nhân dân, tham gia các phong trào đấu tranh chống Pháp.
Trong ngôi trường Quốc Học Huế, Nguyễn Tất Thành may mắn được gặp một số thầy giáo người Việt vừa giỏi, vừa có tâm và có tư tưởng tiến bộ (thầy Hoàng Thông, thầy Lê Văn Miến...). Thầy Hoàng Thông dạy Hán văn thường nói với học sinh của mình rằng: “Nước vì bất hạnh mà mất, không phải mất của một họ riêng mà thôi…cùng với nước, dân tộc bị diệt chủng”.[7] Thầy đã cùng học sinh Quốc Học tham gia truyền bá “Tân thư”, phổ biến thơ văn của Đông kinh Nghĩa thục, hưởng ứng việc dùng hàng nội hoá, mặc áo ngắn, cắt tóc ngắn. Thầy Lê Văn Miến (hoạ sĩ, dạy vẽ) đã kể nhiều chuyện về nước Pháp cho các học sinh của mình. Những chuyện của thầy Miến kể cùng những hoạt động yêu nước của thầy Thông là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến định hướng đi ra phương Tây của Nguyễn Tất Thành sau này.
Đây là giai đoạn có sự chuyển biến tích cực nhất trong tư tưởng yêu nước của Hồ Chí Minh. Với sự mẫn cảm trước thời cuộc, trước những nỗi khổ đau mà nhân dân đang phải gánh chịu, Nguyễn Tất Thành nhanh chóng nhận ra rằng đằng sau khẩu hiệu “Tự do – Bình đẳng – Bác ái” thì thái độ và chính sách của thực dân trên các vùng miền Người đi qua đều khác hẳn với những điều chúng nói. Và càng ngày “cậu càng hoài nghi các khẩu hiệu từ cái thiên đường trường học nêu ra”[8], đau đáu quyết tâm phải tìm hiểu những gì ẩn chứa đằng sau những từ ấy.
Sự tham gia của Nguyễn Tất Thành và các bạn cùng trường trong phong trào chống Thuế năm 1908 là sự kiện minh chứng hùng hồn cho sự phản tác dụng của nền giáo dục nô dịch Thực dân Pháp. Sản phẩm do chúng đào tạo trực tiếp lại ngang nhiên đứng về phía đội ngũ đối phương, dùng vốn tiếng Pháp và kiến thức học được từ nhà trường của chúng để phiên dịch ủng hộ những lời lẽ công kích chế độ do chúng thiết lập.
Như thế, có thể nói rằng, nhờ hành động “cách mạng” cho con vào học trường Tây của cụ Sắc mà Nguyễn Sinh Cung - Nguyễn Tất Thành có điều kiện sớm tiếp xúc được với một nền văn hóa mới, những tri thức mới của nhân loại, tạo một bước ngoặt trong cuộc đời Người, mở ra những tiền đề cho việc đi tìm chân lý. Để rồi, với tấm lòng yêu nước thương dân thiết tha, Nguyễn Tất Thành sớm hòa mình vào cuộc sống của quần chúng lao khổ, tham gia các phong trào yêu nước, bắt đầu ở Huế.
2. Ảnh hưởng của bối cảnh lịch sử xã hội Huế những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX:
Với khoảng thời gian gần 10 năm thời thơ ấu theo cha vào Huế sinh sống và học tập, Nguyễn Sinh Cung - Nguyễn Tất Thành được dịp chứng kiến, nếm trải những kinh nghiệm đầu tiên về sự suy tàn của chế độ phong kiến, sự hà hiếp của thực dân Pháp đối với nhân dân, sự thất bại nặng nề của những phong trào yêu nước chống Pháp. Bối cảnh chính trị, xã hội Huế vào những năm cuối thế kỉ XIX-đầu thế kỉ XX, chính là thời gian Triều đình nhà Nguyễn cũng như người dân xứ Huế phải trải qua biết bao biến cố, đổi dời của thời cuộc. Từ một đất nước, một triều đại có chủ quyền, trở thành kẻ nô lệ, phụ thuộc hoàn toàn vào sự thống trị của Thực dân Pháp.
- Huế, cố đô của triều đình phong kiến nhà Nguyễn lúc đó đang diễn ra cảnh áp bức bóc lột nặng nề, hà khắc hơn bất cứ nơi nào trong cả nước. Tầng lớp quan lại được đặc ân thả sức tung hoành, hà hiếp nhân dân, bắt dân trong vùng phải đi phu, nộp xâu nộp thuế, dồn dân, chiếm đất để xây thành quách lâu đài, lăng tẩm, đẩy người dân nơi đây vào những thảm cảnh đau lòng. Mâu thuẫn cố hữu giữa quần chúng nhân dân với chế độ phong kiến đã được đẩy lên cao trào. Đặc biệt hơn cả là triều Nguyễn đã dần nhu nhược đầu hàng giặc Pháp. Những cuộc họp của triều đình đều có quan Tây tham dự và quyết định những vấn đề hệ trọng, vua quan trở thành những kẻ bù nhìn. Bọn thực dân Pháp đã biết dung dưỡng chế độ phong kiến tại Việt Nam để ra sức bóc lột nhân dân. Nhân dân ta giai đoạn này sống trong cảnh một cổ 2 tròng. Cụ Phan Chu Trinh đã từng kể trong cuốn “Trung kỳ dân biến” rằng: “Việc bắt bớ thảm thiết hơn bắt trộm cướp, ngược đãi tàn nhẫn như với cầm thú...oan thảm đầy trời, tối cả nhật nguyệt”. Chứng kiến những nghịch cảnh hằng ngày diễn ra trước mắt, Nguyễn Sinh Cung lúc đó đã nuôi dưỡng sự đồng cảm, chia sẻ nỗi đau thương, mất mát của đông đảo dân nghèo. Với sự dạy dỗ cẩn thận, phân rõ phải trái, theo dõi định hướng của người cha, Nguyễn Sinh Cung đồng thời là Nguyễn Tất Thành sau này đã có những hành động đúng đắn khi tham gia vào các hoạt động yêu nước đầu tiên, đặc biệt là tham gia sự kiện chống sưu thuế của nông dân 6 tỉnh miền Trung tại tòa Khâm sứ Trung kỳ năm 1908. Với vai trò của một người thông ngôn, vốn tiếng Pháp học ở trường Tây trở thành công cụ sắc bén cho Anh đứng về phía nhân dân chống lại quân thù.
- Thời kỳ này, bất chấp sự đầu hàng nhục nhã của triều đình Huế, nhân dân ta đã nổi dậy khắp nơi để chống Pháp. Điển hình có phong trào Cần Vương do Tôn Thất Thuyết lãnh đạo, phong trào Đông Du của cụ Phan Bội Châu, phong trào Duy Tân của cụ Phan Chu Trinh. Tuy nhiên, các phong trào nông dân thời đó sau một thời gian diễn ra sôi nổi, cuối cùng đều bị thất bại và bị dìm trong biển máu. Với tấm lòng yêu nước thương dân tha thiết, Nguyễn Tất Thành đã trăn trở với biết bao nhiêu câu hỏi lớn về vận mệnh của dân tộc. Anh đã đi sâu tìm hiểu trong lịch sử, đặc biệt là các phong trào chống Pháp đương thời, những cứ liệu này đã cho Anh những kết luận đúng đắn, và định hướng cho tư duy và hành động của mình. Nguyễn Tất Thành nhận biết được những hạn chế, lúng túng trong tầm nhìn lịch sử và giai cấp, trong đường lối cách mạng của các sĩ phu yêu nước lúc bấy giờ. Họ đã không phân định rõ được bản chất của chủ nghĩa đế quốc, không nhìn nhận được đâu là kẻ thù, đâu là lực lượng cách mạng. Kính trọng, khâm phục các bậc anh hùng tiền bối, nhưng Anh không bằng lòng với đường đi nước bước của những người đi trước và không muốn đi theo những vết mòn của lịch sử. Đó chính là dấu hiệu nhận biết Anh đã vượt qua giới hạn chật hẹp của thế giới quan và nhân sinh quan cũ, vượt qua những định kiến hẹp hòi của các cụ lớp trước, chuyển từ lập trường yêu nước kiểu cũ sang lập trường yêu nước kiểu mới. Đau nỗi đau chung của toàn dân tộc trước cảnh nước mất nhà tan, Nguyễn Tất Thành đã xác định được lối đi đúng đắn cho bản thân khi quyết định ra phương Tây tìm đường cứu nước, giải phóng đất nước, đem lại hạnh phúc ấm no cho nhân dân.
3. Ảnh hưởng của các luồng tư tưởng phương Tây:
Theo kết quả nghiên cứu, Nguyễn Sinh Cung - Nguyễn Tất Thành (Chủ tịch Hồ Chí Minh) từng theo học ở các trường TH Pháp - Việt Đông Ba (niên khóa 1907-1908) và trường Quốc Học Huế (niên khóa 1908-1909). Có thể nói giai đoạn này là vô cùng quan trọng trong quá trình hình thành những suy tư, những hoài bão lớn, những ý chí và hành động của Người vượt hẳn những suy nghĩ thông thường đương thời.
Từ ngôi trường Quốc Học của Pháp dựng lên, Nguyễn Tất Thành đã theo lời dặn dò của cha, cố gắng học hành chăm chỉ, nắm bắt cơ hội để tích luỹ vốn từ vựng, ngữ pháp, trau dồi tiếng Pháp để làm chìa khoá tìm hiểu nền văn minh Pháp, tiếp cận với lịch sử Pháp, nhất là lịch sử về cuộc cách mạng tư sản Pháp (1789), đi sâu tìm hiểu nguồn gốc và ý nghĩa sâu xa của nó. Trong quá trình tham gia học tập ở trường Quốc Học, dù bị “người ta cấm học sinh đọc các tác phẩm của Hugo, Rouseau và Montesquier”[9], Người đã bỏ công tìm ra và khảo cứu những tác phẩm của họ. Các nhà văn, nhà triết học Pháp của Thế kỷ ánh sáng (giai đoạn cuối thế kỷ 18 của triết học phương Tây) với ý tưởng ủng hộ các văn sĩ phê phán Giáo hội và Quốc vương Pháp đương thời, làm thơ ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng, những cuốn sử xuất sắc, coi trọng quyền công dân thế giới, đề cao một chính quyền trung ương dựa trên nền tảng của sự tự do, kêu gọi đưa loài người trở về với tự nhiên; Đồng thời, tư tưởng tự do, bình đẳng trong Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Đại cách mạng Pháp 1791, tư tưởng dân chủ, về quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc trong Tuyên ngôn độc lập của Mỹ 1776 là những luồng tư tưởng tiến bộ ảnh hưởng mạnh mẽ đến Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc sau này.
Cụ Nguyễn Đạm (bạn học cũ của Nguyễn Sinh Cung – Nguyễn Tất Thành trên đất Huế) đã từng nhận xét rằng: “Hai thời kỳ Bác Hồ sống ở Huế..., lần thứ 2 quan trọng hơn bởi Nguyễn Sinh Cung đã là Nguyễn Tất Thành vào đúng tuổi thiếu niên sang tuổi thanh niên, đồng thời thêm vốn văn hóa Hán lẫn Tây học giúp cho đầu óc những cơ sở đối chiếu, suy nghĩ, lần sau kế thừa lần trước về mặt ghi nhận. Nhưng chính lần sau mới đủ điều kiện để Nguyễn Tất Thành hoạt động có tư duy dù còn non trẻ”[10].
Chính ngôi trường Quốc Học, ngôi trường chủ yếu dạy chữ Pháp đã trở thành nơi cung cấp cho Người những điều kiện cơ bản nhất để Nguyễn Tất Thành tiếp xúc, nắm bắt và tìm hiểu, khám phá và tiếp thu những luồng tư tưởng tiến bộ, khám phá nền văn minh phương Tây. Tích lũy kinh nghiệm, hoàn thiện và làm giàu thêm vốn tri thức của mình. Nhờ tham gia vào thực tiễn đấu tranh sôi động của nhân dân Huế năm 1908, Nguyễn Tất Thành đã thực sự hình thành tư tưởng cứu nước, cứu dân.
Với những tiến bộ vượt bậc trong tư tưởng yêu nước, sự nhạy cảm trước thời cuộc, Nguyễn Tất Thành tuy xuất thân trong một nhà nho nhưng lại không bị ràng buộc bởi chủ nghĩa trung quân như một số trí thức đương thời, một phần quan trọng nhờ vào sự định hướng đúng đắn của thân sinh (cụ Nguyễn Sinh Sắc). Tư tưởng yêu nước của Người kế thừa tinh hoa của chủ nghĩa yêu nước truyền thống nên thấm nhuần những giá trị dân tộc và nhân bản của đạo lý Việt Nam, vừa bao hàm một tinh thần đổi mới phù hợp với yêu cầu giải phóng dân tộc và xu thế của thời đại. Nắm bắt và làm giàu thêm vốn tri thức của mình bằng ánh sáng của các luồng tư tưởng tiến bộ phương Tây, Nguyễn Tất Thành đã chuẩn bị cho mình những tiền đề tư tưởng bao gồm việc phê phán những con đường cứu nước của các bậc cha chú, lựa chọn hướng đi và điểm đến cho riêng mình. Với quyết định “phải đi ra nước ngoài để xem cho rõ” cho thấy ở tuổi thiếu niên, tư tưởng yêu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hình thành và phát triển cao độ, cùng với những hoạt động thực tiễn sôi nổi, phong phú, Nguyễn Tất Thành đã dần tiếp cận được chân lý của thời đại.
[1] Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc/Nguyễn Đắc Hiền (chủ biên). Khu di tích Nguyễn Sinh Sắc. 1990. tr.27,28.
[2] Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc (sách đã dẫn, tr. 50).
[3] Những người thân trong gia đình Bác Hồ/Trần Minh Siêu (biên soạn). Nxb. Nghệ An.- 1999.- tr. 31.
[4] Những mẩu chuyện về thời niên thiếu của Bác Hồ/Ban nghiên cứu lịch sử Đảng Nghệ Tĩnh. Nxb Sự Thật. 1985.
[5] Âm vang thời Bác Hồ ở Huế/Bảo tàng Hồ Chí Minh Thừa Thiên Huế.-Nxb Thuận Hoá, 2003-tr. 28.
[6] Hồ chí Minh Toàn tập – Tập 2.-Nxb Sự Thật.-H.-1981, tr. 126.
[7] Âm vang thời Bác Hồ ở Huế/Bảo tàng Hồ Chí Minh Thừa Thiên Huế.-Nxb Thuận Hoá.-Huế, 2003. Tr. 122.
[8] Phạm Xanh/Nguyễn Ái Quốc với việc truyền bá Chủ nghĩa Mác – Lênin vào Việt Nam (1921-1930).-Nxb Thông tin Lý luận.-H. 1990.
[9] Hồ chí Minh Toàn tập-Tập 2.-Nxb Sự Thật.-H.-1981, tr.127.
[10] Trần Văn Giàu -Trần Bạch Đằng/Vàng trong lửa (Kỷ yếu Hội thảo kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh).-Ban khoa học xã hội.-Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh.-1990, tr.36.